+Aa-
    Zalo

    Ly kỳ chuyện "lợn vàng chôn nơi mộ vua"

    • DSPL

    (ĐS&PL) - Trong quá trình tìm hiểu về những gò mộ khổng lồ ở làng Tam Đường, tôi được nghe nhiều câu chuyện ly kỳ về “quả núi” có tên Phần Cựu.

    Trong quá trình tìm h?ểu về những gò mộ khổng lồ ở làng Tam Đường, tô? được nghe nh?ều câu chuyện ly kỳ về “quả nú?” có tên Phần Cựu.

    Ngườ? dân Tam Đường (T?ến Đức, Hưng Hà, Thá? Bình) a? cũng b?ết câu “T?ền tam tha?, hậu thất t?nh” và theo lý g?ả? của họ, câu nó? ám chỉ phía trước làng có 3 gò mộ, còn phía sau làng có 7 gò mộ, ngườ? dân gọ? là khu mả vua.

    Tuy nh?ên, chuyện về 7 gò mộ ở cánh đồng sau làng nhỏ hơn những gò mộ trước làng, nên trả? thờ? g?an mưa nắng mà? mòn, cùng vớ? sự phá hủy của con ngườ? đã dần bị b?ến mất.

    Lăng Tư Phúc ở Quảng N?nh, từ xưa thờ 3 vị vua Trần Thá? Tông, Trần Thánh Tông, Trần G?ản Định.

    Phía trước làng, tức phía Nam gồm có 3 gò mộ rất lớn. Chếch lên phía Bắc còn có một gò nữa, chỉ nhỏ hơn một chút. Mỗ? gò mộ có tên r?êng, đó là Phần Cựu, Phần Bụt, Phần Trung và Phần Đa, là nơ? đặt cốt các vị vua Trần.

    7 ngô? mộ nhỏ hơn ở phía sau làng, là nghĩa địa chôn Trần K?nh, Trần Hấp, Trần Lý, Trần Thừa cùng các công chúa, hoàng hậu thờ? Trần.

    Về câu nó? “T?ền tam tha?, hậu thất t?nh”, nhà ngh?ên cứu Đặng Hùng lạ? có cách lý g?ả? hơ? khác. Theo ông, đất Ngự Th?ên (phủ Long Hưng) xưa được ngườ? đờ? truyền tụng là đất mả sao. Đó là các gò đống nổ? lên, ở trên có các chòm cỏ xanh hình tròn, đường kính độ 1 mét, từ xa nhìn lạ? trông không khác gì các ngô? sao ở trên trờ?.

     

     

    Đền Trần ở Thá? Bình.

    Vì thế đất có đặc đ?ểm đó, nên còn có tên là hương T?nh Cương. T?nh có nghĩa là ngô? sao, Cương có nghĩa là gò đất nổ? cao lên. Qua quá trình phù sa bồ? đắp, đất T?nh Cương xưa có hình thế (theo cách gọ? của các thầy địa lý Tàu) “T?ền tam tha?, hậu thất t?nh”, là đất phát tướng, phát vương.

    Nếu theo cách lý g?ả? của ông Hùng, thì cá? hình thế “T?ền tam tha?, hậu thất t?nh”, ám chỉ các gò đất có trước thờ? Trần (hình thế đẹp nên tổ t?ên nhà Trần mớ? mang mộ về đặt), hoặc câu đó không ám chỉ những gò mộ, mà ám chỉ thế đất.

    Các cụ g?à ngườ? Tam Đường thì nhất nhất khẳng định câu nó? đó ám chỉ các gò mộ. Theo các cụ, những năm 60 của thế kỷ trước, phía sau làng, gần sông Thá? Sư vẫn còn các gò đất lớn. Dân làng đã phát động phong trào phá gò đống để mở rộng ruộng đồng. Quá trình san mộ làm ruộng cũng phát h?ện quách đá, quách gỗ trong các gò đống. Thập kỷ 70, các nhà khoa học vẫn đào bớ? ở khu vực đó để tìm dấu tích các gò mộ.

    Một ngô? mộ phía trước làng Tam Đường có tên là Phần Trung.

    Trong quá trình tìm h?ểu về những gò mộ khổng lồ ở làng Tam Đường, tô? được nghe nh?ều câu chuyện ly kỳ về “quả nú?” có tên Phần Cựu. Đây là ngô? mộ lớn nhất ở làng, lớn gấp đô? những phần mộ còn lạ?. Tuy nh?ên, ngườ? dân trong làng Tam Đường lạ? ít gọ? bằng cá? tên này, mà họ gọ? là Phần Lợn. Chẳng lẽ ngườ? dân lạ?… xúc phạm vua bằng cách gọ? như thế?

    Chuyện rằng, vào thập kỷ 50 của thế kỷ trước, ông Tuyên là ngườ? chuyên nghề bắt rắn, đ? so? cá lúc nửa đêm về sáng ở cánh đồng làng, bỗng gặp đàn lợn con nhởn nhơ… gặm cỏ. Ông cầm nơm (dụng cụ để bắt cá) đuổ? theo và úp được một con. Những con lợn trong đàn sợ quá chạy te tua về phía Phần Cựu là lẩn hết vào những bụ? cỏ, tìm mã? không thấy.

    Ông Tuyên tró? chú lợn con này lạ? rồ? xách về nhốt trong nhà. Lạ thay, sớm hôm sau, con lợn b?ến thành cục vàng! Tuy nh?ên, ngay hôm đó, ông Tuyên lăn ra ốm, nằm l?ệt g?ường l?ệt ch?ếu, cấm khẩu.

    G?a đình sợ quá đ? xem bó?, thì thầy nào cũng phán đó là lợn thần, phả? trả ngay. Lập tức, g?a đình mang cục vàng chôn vào một chỗ bí mật trên gò mộ. Ông Tuyên tỉnh táo dần, rồ? khỏe mạnh như thường.

    Ông Tuyên mất năm 2005. Lúc còn sống, ông vẫn kể chuyện này cho mọ? ngườ? nghe vớ? thá? độ rất ngh?êm túc. Ngườ? dân trong làng Tam Đường đều b?ết đến câu chuyện của ông.


    Cổng tam quan ở đền Trần.

    Ông Cường, ban quản lý khu d? tích đền Trần chỉ cho tô? b?ết nơ? từng có một “quả nú?”, có tên Phần Cựu. Theo ông Cường, xưa k?a, “quả nú?” này cao vượt ngọn tre của làng. Gò mộ cao và to đến nỗ?, có năm vỡ đê sông Hồng, nước dâng ngập nóc nhà, ngườ? dân trong làng kéo hết lên nóc ngô? mộ này lánh tạm. Cả làng dựng lều, nấu nướng, sống một thờ? g?an dà? trên đỉnh ngô? mộ.

    Thờ? kỳ kháng ch?ến chống Mỹ, bộ độ? ta còn mở đường để kéo pháo đặt trên đỉnh ngô? mộ này để bắn máy bay Mỹ cho… gần. Ngô? mộ cũng b?ến thành nơ? bộ độ?, dân quân tập luyện làm quen vớ? mô? trường nú? non. Những tấm b?a tập bắn được dựng lên dướ? chân và lưng chừng mộ. Dân quân và bộ độ? cứ tha hồ bắn mà không sợ đạn lạc đ? nơ? khác, bở? đã có “quả nú?” án ngữ phía sau những tấm b?a.

    Thờ? kỳ đó, dù dân làng vẫn truyền m?ệng đây là những ngô? mộ vua, song không a? thờ cúng, không a? quản lý, nên chỉ co? đó là những quả nú? đất bình thường. Trong quá trình bộ độ?, dân quân và ngườ? dân đào đường dắt pháo lên gò mộ, rồ? đào hầm trú ẩn, đã phát h?ện ra những quách đá, quách gỗ, đường hầm trong mộ.


    Sỏ? được luyện vớ? đất sét để đắp mộ.

    Phát h?ện ra mộ cổ, các nhà khoa học ở trung ương đã về kha? quật. Theo lờ? đồn của ngườ? dân thì các nhà khoa học đã mang đ? không b?ết bao nh?êu đồ cổ thu thập được từ ngô? mộ này. Bảo tàng Thá? Bình đã cất g?ữ bí mật nh?ều đồ quý để sau này sẽ đưa về Tam Đường để du khách được ch?êm ngưỡng.

    Các nhà khoa học rút đ?, ngô? mộ lạ? bỏ hoang phế. Đ?ều đáng quan tâm là ngô? mộ này là một nú? sỏ? khổng lồ. Thờ? Trần, ngườ? ta đã chở hàng vạn tấn sỏ? cuộ? từ N?nh Bình về đây, luyện vớ? đất sét rồ? đắp ngô? mộ thành quả nú?.

    Mộ các vị vua Trần được xây quây bằng gạch để tránh sự xâm phạm của con ngườ?.

    V?ệc trộn đất sét vớ? sỏ? cuộ? sẽ kh?ến ngô? mộ được bền bỉ trước sự tàn phá của th?ên nh?ên, con ngườ?. Trả? qua 700 năm, ch?ến tranh, con ngườ? tàn phá, đình đền, hoàng thành đổ nát, song những gò mộ vẫn đứng sừng sững. Quả là một công trình kỳ công, vĩ đạ?.

    Thập kỷ 80, phong trào xây nhà bêtông bắt đầu rầm rộ ở Thá? Bình. Để có nguyên l?ệu đổ má?, ngườ? dân Tam Đường đã ra mộ đã? đất lấy sỏ?. Nhà máy đường Hưng Nhân cũng được xây dựng từ đá sỏ? ở ngô? mộ này. Mấy chục ngô? nhà ở Tam Đường và nhà máy đường Hưng Nhân cũng chỉ dùng hết một góc nhỏ của ngô? mộ. H?ện những ngô? nhà làm bằng sỏ? cuộ? lấy từ mộ vua vẫn còn ở Tam Đường.

    Thờ? kỳ đó, đường làng Tam Đường lầy lộ? lắm, cứ mưa xuống là bùn ngập mắt cá chân. Thế là cả làng chở sỏ? cuộ? rả? đường. Ngô? mộ này đủ làm mấy k?lomet đường làng, kéo ra tận tỉnh lộ. Những khố? đá khổng lồ bị g?ật mìn nung vô?.

    Theo cụ Lê Như Ngân, những ph?ến đá dựng mộ lớn khủng kh?ếp. Mộ to như một căn nhà, được xếp bằng các ph?ến đá. Có ph?ến đá rộng đến 15 mét vuông và dày nửa mét, được mà? nhẵn, xếp khít. Gạch ngó? xây mộ cũng rất đẹp, mang hình thù rộng phượng. Những khúc gỗ vàng tâm mo? lên cưa xẻ làm vật dụng vẫn vàng ươm.

    Vào năm 1980, ngườ? dân t?ếp tục đào mộ đã? sỏ?, làm lộ đường hầm ở Phần Đa. Theo cụ Ngân, quách đá của Phần Đa cũng rất lớn, gần bằng Phần Cựu. May mắn là các nhà khoa học đã kịp thờ? phát h?ện, bảo vệ ngô? mộ này, nên g?ữ được đến ngày hôm nay.

    (Còn t?ếp ...)

    Theo VTC

    Link bài gốcLấy link
    https://doisongphapluat.nguoiduatin.vn/dspl/ly-ky-chuyen-lon-vang-chon-noi-mo-vua-a17304.html
    Zalo

    Cảm ơn bạn đã quan tâm đến nội dung trên.

    Hãy tặng sao để tiếp thêm động lực cho tác giả có những bài viết hay hơn nữa.

    Đã tặng:
    Tặng quà tác giả
    BÌNH LUẬN
    Bình luận sẽ được xét duyệt trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.
    Tin liên quan