Những điều kiện để bị can, bị cáo được tại ngoại


Thứ 2, 27/11/2017 | 00:16


Trên phương diện pháp luật, để được tại ngoại, bị can, bị cáo phải được "bảo lĩnh" khi phạm tội ít nghiêm trọng và có nơi cư trú rõ ràng, không có dấu hiệu bỏ trốn.

Bị can, bị cáo có thể được tại ngoại khi phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và có nơi cư trú rõ ràng, không có dấu hiệu bỏ trốn.

Ảnh minh họa.

Theo quy định tại Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, việc tạm giam được áp dụng đối với các trường hợp phạm tội bao gồm:

Thứ nhất, phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.

Thứ hai, bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.

Thứ ba, bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.

Thứ tư, bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử.

Thứ năm, bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Điều kiện tại ngoại:

Hiện nay, quy định pháp luật về điều kiện cho tại ngoại đối với bị án chưa cụ thể, tuy nhiên có thể hiểu rằng việc tại ngoại đối với người bị án khi có một trong các yếu tố sau:

Thứ nhất, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Thứ hai, người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và có nơi cư trú rõ ràng, không có dấu hiệu bỏ trốn.

Thủ tục bảo lĩnh (bảo lãnh):

Về thủ tục tại ngoại, tại Điều 92 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về điều kiện và thủ tục bảo lĩnh (bảo lãnh) như sau:

Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.

Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.

Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.

Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Vi An (T/h)

Link nguồn: https://doisongphapluat.nguoiduatin.vn/dspl/nhung-dieu-kien-de-bi-can-bi-cao-duoc-tai-ngoai-a210832.html